Cuộc đời Lý Quang Địa

Tuổi thơ và xuất sĩ làm quan

Lý Quang Địa sinh vào giờ Hợi, ngày 6 tháng 9 (âm lịch) năm Sùng Trinh thứ 15 (1642)[1] trong một gia đình quan lại trí thức giàu có. Sử sách ghi chép lại, ông từ nhỏ đã thông minh hơn người,[11] mới 5 tuổi đã đến trường theo thầy đọc sách, "rất ít mở miệng, nhưng đã nói thì đều đã thuộc lòng, không sót một chữ; giỏi về đối, lên tiếng đều làm mọi người kinh ngạc, thầy giáo cũng không dạy được"[10]. Mới 13 tuổi, ông đã đọc hết các loại kinh thư kinh điển của Nho gia, 18 tuổi đã biên soạn "Tính lý giải", 19 tuổi thì viết "Tứ thư giải", 20 tuổi biên soạn "Chu dịch giải", 24 tuổi thì viết "Lịch tượng yếu nghĩa", đến 25 tuổi thì đã tinh thông âm luật.[12]

Năm Khang Hi thứ 3 (1664), Lý Quang Địa thi đậu Cử nhân trong kỳ thi Hương.[13] Sáu năm sau, ông đỗ Tiến sĩ, đứng vị trí thứ năm trên bảng vàng, được tuyển vào Thứ Thường quán làm vị trí Thứ Cát sĩ.[14] Ông lên đường đến Bắc Kinh nhậm chức, để gia đình lại cho người em Lý Quang Pha săn sóc.[15] Đến tháng 9 năm thứ 12 (1672), ông được thăng chức trở thành Biên tu của Hàn Lâm viện.[16][17]

Năm thứ 12 (1673), ông được bổ nhiệm vào hội đồng chấm thi của kì thi Hương. Đến tháng 5 cùng năm, ông xin phép nghỉ để về Phúc Kiến thăm người thân.[11]

Bình định Tam phiên

Năm Khang Hi thứ 13 (1674), trong sự bùng nổ của Loạn Tam Phiên, Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh Trung nổi dậy tạo phản, chiếm đất Phúc Kiến, Trịnh KinhĐài Loan khởi binh tấn công Tuyền Châu, cả nhà Lý Quang Địa chạy trốn đến núi sâu, Trịnh Kinh và Cảnh Tinh Trung đều dụ hàng nhưng Lý Quang Địa kiên quyết từ chối.[11] Trong khoảng thời gian này, ông cùng với một người bạn cùng khoa thi là Trần Mộng Lôi cùng nhau họp mưu, ông thuyết phục Trần Mộng Lôi vào làm gián điệp trong quân đội của Cảnh Tinh Trung.[18] Một năm sau, Lý Quang Địa âm thầm viết mật báo, giấu bên trong lạp hoàn[Chú 2], phái người bí mật mang đến kinh thành, cuối cùng nhờ Nội các Học sĩ Phú Hồng Cơ trình lên Khang Hi Đế. Sau khi nhận được mật báo thì Khang Hi Đế cực kỳ cảm động, khen ngợi Lý Quang Địa trung thành với triều đình. Lúc bấy giờ, Thượng Chi Tín làm phản, xuất quân chiếm lĩnh Cống Châu, Nam An, nhưng không để vào được Phúc Kiến. Khang Thân vương Ái Tân Giác La Kiệt Thư từ Cù Châu đánh chiếm Tiên Hà quan, thu phục Kiến Ninh, Duyên Bình, Cảnh Tinh Trung bị ép xin hàng. Quân đội của Khang Thân vương Kiệt Thư tiến vào chiếm giữ Phúc Châu, Kiệt Thư lệnh cho Đô thống Lạp Cáp Đạt và Lãi Tháp Thảo đem quân đi đánh dẹp Trịnh Kinh, nhân tiện nghe ngóng chỗ ở hiện tại của Lý Quang Địa.[11]

Đến năm thứ 16 (1677), triều đình nhà Thanh thu phục được Tuyền Châu. Lý Quang Địa đã bái kiến Lạp Cáp Đạt ở Chương Châu. Lạp Cáp Đạt đã báo lên Khang Thân vương Kiệt Thư rằng: "Lý Quang Địa quyết chí thề vì nước, dù cho sống đầu đường xó chợ cũng chưa từng mất đi chí hướng, cần phải được khen ngợi". Tháng 3, Khang Thân vương liền hạ lệnh ưu đãi và đề bạt Lý Quang Địa lên chức Ngạch ngoại[Chú 3] Thị độc Học sĩ của Hàn lâm viện[19][20]. Lý Quang Địa đến Phúc Châu thì cha ông mất, phải quay về nhà chịu tang.[11]

Năm thứ 17 (1678), có một phiến quân khởi nghĩa lấy danh nghĩa "phục Minh" nổi dậy ở Đồng An, lấy hơn vạn người vây công An Khê. Lý Quang Địa chiêu mộ hơn trăm dũng sĩ địa phương cố thủ, chặt đứt đường vận chuyển lương thực của địch để giải vây. Không lâu sau, Trịnh Kinh phái tướng lĩnh Lưu Quốc Hiên đánh hạ các huyện Hải Trừng, Chương Bình, Đồng An, và Huệ An, áp sát Tuyền Châu, phá hư hai cầu Vạn An và Giang Đâu, cắt đứt đường viện trợ cho quân Thanh từ hai phía nam bắc. Lý Quang Địa phái sứ giả cấp báo cho quân của Lạp Cáp Đạt nhưng lại gặp phải tắc nghẽn đường sông do lũ. Vì vậy ông liền mang theo quân men theo đường nhỏ từ Chương Bình, An Khê mà vào, phối hợp cùng với chú của ông là Lý Nhật Hoàng và em trai ông là Lý Quang Điệt, Lý Quang Ngân liên hợp tấn công. Đại quân tiến vào chiếm giữ Tuyền Châu, đánh tan quân của Lưu Quốc Hiên. Lạp Cáp Đạt viết báo cáo công lao của Lý Quang Địa trình lên triều đình, Lý Quang Địa một lần nữa được đánh giá "ưu", được thăng làm Hàn Lâm viện Học sĩ.[11]

Năm thứ 19 (1680), tháng 7, sau khi mãn tang, Lý Quang Địa trở lại kinh thành, Khang Hi Đế lệnh cho ông không cần bổ khuyết,[Chú 4] lập tức nhậm chức Nội các Học sĩ kiêm Thị lang bộ Lễ.[21] Trong khoảng thời gian này, ông tiến cử Thi Lang đảm nhiệm vị trí tướng lĩnh bình định Đài Loan, Khang Hi Đế tiếp thu việc tiến cử này, thuận lợi thu phục được Đài Loan.[22]

Chìm nổi chốn quan trường

Năm Khang Hi thứ 21 (1682), Lý Quang Địa xin phép nghỉ để đưa mẹ về quê, bốn năm sau mới trở lại kinh thành. Tháng 7, ông được bổ khuyết đưa vào vị trí Ngạch ngoại Học sĩ,[23] ba tháng sau thì trở lại làm Nội các Học sĩ kiêm Kinh diên Giảng quan.[Chú 5] Đến tháng 12, ông được thăng làm Chưởng viện Học sĩ, trở thành người đứng đầu trong Hàn lâm viện, hàm Tòng nhị phẩm. Gần cuối năm, ông kiêm nhiệm thêm Khởi cư chú quan, và việc giảng dạy các Thứ cát sĩ mới.[24] Sang năm sau, vì mẹ bị bệnh nên ông xin về quê chăm sóc mẹ, được Khang Hi Đế đồng ý. Không những vậy, Khang Hi còn đặc biệt ra lệnh cho ông lập tức quay về kinh sau khi mẹ khỏi bệnh để đảm nhiệm chức vụ, trong suốt khoảng thời gian đó không cần điều người thay vị trí của ông.[25]

Năm thứ 27 (1688), tháng 3, Lý Quang Địa trở lại kinh thành. Lúc ấy đang là tang kỳ của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, quan viên bộ Lễ liền lấy cớ đó vạch tội ông cố ý kéo dài thời gian trên đường đi, thân là quan Tam phẩm nhưng lại không thể kịp thời trở về kinh thành dập đầu trước tử cung[Chú 6] của Thái hoàng thái hậu, cho rằng nên giao cho bộ Lại luận tội và xử lý. Bộ Lại đề xuất rằng nên giáng xuống năm cấp rồi thuyên chuyển, nhưng cuối cùng Khang Hi lại hạ chỉ miễn tội.[11] Trước đây, ông đã từng tiến cử hai người Đức Cách LặcTừ Nguyên Mộng là người có học thức uyên thâm, viết văn cực kì ưu tú, Hán quan[Chú 7] cũng không thể bằng. Tuy nhiên lại có người tố cáo rằng Đức Cách Lặc và Lý Quang Địa đã từng quen biết trước đây, vậy nên ông mới đề cử Đức Cách Lặc. Nhân việc ông đã quay lại kinh thành, Khang Hi lệnh cho ông cùng các quan viên xem xét bài thi của Đức Cách Lặc. Đến khi xem xét thì phát hiện văn chương của người này "từ ngữ thô bỉ, không hề nho nhã". Khi bị chất vấn, Lý Quang Địa cũng thú nhận tội "vọng tấu"[Chú 8], bị giao cho các bộ luận tội xử lý. Lúc này, Khang Hi lại hạ chỉ, nói rằng Lý Quang Địa vốn nên bị trị tội, nhưng niệm tình khi ông nhậm chức Học sĩ chưa từng vì niệm tình mà qua loa lấy lệ, trong chiến tranh với Đài Loan, dù ai cũng nói không thủ được thì Lý Quang Địa vẫn đơn độc nói "có thể thủ", và ông cũng đã làm được, đây cũng là sở trường của ông. Ngoài lần này ra, Lý Quang Địa chưa từng "vọng tấu", đều là nói được làm được, vậy nên Khang Hi lại ra lệnh miễn tội, vẫn tiếp tục làm Học sĩ như cũ.[26] Tháng 9 cùng năm, ông được chọn làm Chính khảo quan[Chú 9] cho kỳ thi Hội dành cho võ.[27]

Năm thứ 28 (1689), có một lần Khang Hi Đế đến đài quan sát tinh tượng, triệu các đại thần trong các bộ, viện, hỏi trong các Hán thần có ai hiểu biết về thiên văn hay không, các quan đều đáp không biết. Khang Hi liền cho gọi Lý Quang Địa đang là Chưởng viện Học sĩ, hỏi ông hiểu tinh tú được bao nhiêu. Lý Quang Địa liền tấu rằng, Nhị thập bát tú thần còn chưa thể biết hết toàn bộ. Khang Hi liền nói ông tự biết mình, lại hỏi đến các vấn đề khác về nông lịch, sao Chủy, sao Sâm, ông tiếp tục đáp không biết. Khang Hi Đế vốn là một nhà bác học, tinh thông nhiều bộ môn, trong đó có cả thiên văn học, liên tục đặt ra các vấn đề cho Lý Quang Địa nhưng ông đều không thể trả lời. Điều này khiến cho Khang Hi Đế vô cùng thất vọng, cho rằng ông tài học chưa đến, không thể làm tấm gương sáng của Hàn Lâm, liền giáng ông xuống chức Thông chính sứ của Thông chính sứ ty.[11][28] Nhưng đến tháng 12, ông lại được thăng chức trở thành Hữu Thị lang của bộ Binh.[29] Cuối năm này có nạn mất mùa, Khang Hi lệnh cho các bộ phận liên quan chẩn tai, miễn trừ thuế ruộng, huy động lương thực đưa đến tay các nạn dân, tổ chức phát cháo tại nhiều địa phương; Lý Quang Địa cùng một số quan viên khác được lệnh chia làm bốn đường để tuần tra xem xét.[30] Trong khoảng thời gian này, ông được điều sang làm Tả Thị lang.

Năm thứ 30 (1691), tháng hai, triều đình tổ chức kì thi Hội, quan Chính khảo là Đại học sĩ Trương Ngọc ThưCông bộ Thượng thư Trần Đình Kính, quan Phó khảo là Lý Quang Địa và Đốc bộ Thị lang của Binh bộ Vương Sĩ Chính.[31] Đến tháng 9, phía nam sắp vào mùa lũ, Khang Hi Đế lệnh cho Hộ bộ Thị lang Bác Tế, Công bộ Thị lang Từ Đình Tỳ và Lý Quang Địa cùng với nguyên nhậm Hà Đạo Tổng đốc Cận Phụ đi tra xét Hoàng Hà và các công trình xung quanh, nếu có công trình nguy hiểm nào không vững chắc, có nguy cơ hư hỏng thì lập tức tu sửa.[32] Tháng giêng ba năm sau (1694), Lý Quang Địa được thăng làm Đề đốc Học chính[Chú 10] của Thuận Thiên. Nhưng vài tháng sau thì mẹ ông qua đời. Dựa theo lễ chế, ông phải cần từ chức để về quê chịu tang, làm tròn đạo hiếu, gọi là "đinh ưu thủ chế"[Chú 11]. Theo nghiên cứu của giáo sư Bác Đạo - giáo sư viện Triết học Mac của Đại học Kinh tế Tài chính Thượng Hải, khi một quan viên xin về quê để tang cha mẹ (27 tháng), các vị trí của quan viên đó đều sẽ có người thay thế vào, sau khi quan viên trở lại kinh thành cũng phải đợi bổ khuyết, đó là một cách để rút ngắn nhiệm kỳ và tăng nhanh sự luân chuyển quan viên giữa các vị trí.[33] Tuy nhiên, Khang Hi Đế lại một lần nữa hạ chỉ, nói rằng vị trí Đề đốc Học chính Thuận Thiên này vô cùng quan trọng, đặc cách cho Lý Quang Địa tại nhiệm chịu tang.[34] Mặc dù đây là một đặc cách thể hiện sự trọng dụng của Khang Hi Đế, nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến "án đoạt tình" gây tranh cãi về Lý Quang Địa.

Năm thứ 36 (1697), sau khi mãn tang mẹ, ông được thăng làm Công bộ Hữu Thị lang.[35] Không lâu sau lại thuyên chuyển làm Tả Thị lang nhưng vẫn kiêm nhiệm Đề đốc Học chính như cũ.[36] Năm sau, trong một lần theo Khang Hi đến Thịnh Kinh tế tổ, ông đã được chọn làm thầy dạy cho Tam A ca Dận Chỉ. Tháng 12 cùng năm, nhờ "làm quan ưu tú" và "thanh liêm" mà ông được thăng làm Trực Lệ Tuần phủ.[37] Trong thời gian ông tại nhiệm, ông đã xử lý rất tốt việc lũ lụt trong vùng, xây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thủy vận, nhiều lần ông về kinh báo cáo công tác hay Khang Hi Đế đích thân đi khảo sát việc đê điều sông ngòi đều khen ông có năng lực làm việc tốt, nhiều lần đánh giá quan viên đều cho ông loại ưu.[38][39]

Năm thứ 42 (1703), Khang Hi Đế hạ dụ chỉ rằng, từ lúc Lý Quang Địa nhậm chức Tuần phủ, mọi năm đều mưa thuận gió hòa, ngũ cốc được mùa, lòng dân đều tâm phục, nay vị trí Lại bộ Thượng thư đang trống, liền thăng Lý Quang Địa vào vị trí này, trở về kinh thành nhậm chức, đứng vào hàng Cửu Khanh, nhưng vẫn tiếp tục quản lý công việc của Trực Lệ Tuần phủ.[40][41] Khoảng thời gian này là giai đoạn gay gắt nhất của "Cửu tử đoạt đích", Khang Hi Đế hạ lệnh bắt giam Sách Ngạch Đồ và và xử tội hàng loạt những người thuộc phe Thái tử Dận Nhưng; Lý Quang Địa và Trương Đình Ngọc phụng lệnh điều tra vụ án này. Tháng 11 hai năm sau, ông tiếp tục được Khang Hi khen ngợi "năng lực và phẩm chất đều tốt", thăng làm Văn Uyên các Đại học sĩ.[42][43]

Cuộc sống cuối đời

Tháng 3 năm thứ 48 (1709), lấy Đại học sĩ Ôn Đạt và Lý Quang Địa làm Chính sứ, Tả Đô ngự sử Mục Hòa Luân làm Phó sứ cầm cờ tiết, trao cho Dận Nhưng sách bảo phục lập làm Hoàng thái tử.[44] Từ sau năm 1711, ông đã nhiều lần dâng tấu xin về hưu. Nhưng Khang Hi Đế vì việc phế Thái tử lần thứ hai và việc chọn người kế vị mà trong lòng buồn bực, thân thể ngày càng nhiều bệnh, đối với các lão thần như Lý Quang Địa luôn có phần luyến tiếc. Khang Hi từng nói với Lý Quang Địa: "Nhìn thấy tấu chương của khanh, trong lòng trẫm thê lương. Nhớ đến một lớp cựu thần năm đó, nay đều không chút dấu vết mà rời đi. Như khanh vậy, trong triều chỉ còn lại một người, nay trẫm cũng già rồi, cũng không đành lòng nói thêm cái gì".[45]

Tháng 6 năm thứ 54 (1715), Lý Quang Địa lại một lần nữa trình tấu chương xin về hưu, Khang Hi chỉ đồng ý cho ông nghỉ ngơi hai năm, sau khi xử lý xong chuyện trong nhà thì lập tức quay về kinh thành.[46] Lúc ông chuẩn bị khởi hành, Khang Hi đã ban cho ông một biển ngạch "Mô minh bật hài"[Chú 12]. Đúng hai năm sau, Lý Quang Địa quay lại kinh thành, phụng lệnh giám sát nhóm người Đại học sĩ Vương Diễm biên soạn "Xuân Thu truyền thuyết".

Tháng giêng năm thứ 57 (1718), các đại thần tấu định thụy hiệu cho Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, lại viết sót ba chữ "Chương Hoàng hậu", các bộ nghị tội xét nên hàng Lý Quang Địa ba cấp, nhưng Khang Hi ra lệnh miễn đi.[47] Ngày 28 tháng 5 năm đó, bệnh cũ tái phát bất ngờ, Lý Quang Địa qua đời khi vẫn còn đang tại nhiệm, thọ 77 tuổi.[48] Khang Hi Đế phái Hằng Thân vương Dận Kì đến phúng viếng, ban thưởng một ngàn lượng bạc và cho gọi Công bộ Thượng thư Từ Nguyên Mộng từ Nhiệt Hà trở về chăm lo cho tang sự của Lý Quang Địa. Không lâu sau, ông được truy thụy hai chữ "Văn Trinh" (文贞).[49] Đến thời Ung Chính, ông được truy tặng hàm Thái tử Thái phó, Quang lộc Đại phu,[50] đưa vào thờ tự trong Hiền lương từ.[51]

An táng

Mộ phần của Lý Quang Địa được đặt ở rừng Bách Diệp, thôn Tân Phản, trấn Bồng Lai của huyện An Khê. Mộ nguyên được làm bằng đá, hình dạng tổng thể tương tự chữ "风", nhưng toàn bộ các công trình như mộ bia, tượng người và thú bằng đá, cột trụ đá khắc hoa văn, tấm bia to ngự chế đều đã bị phá hủy vào năm 1958 để lấy đá xây kênh mương. Về sau hậu duệ của Lý Quang Địa sửa sang lại nơi này, khôi phục mộ bia. Đến năm 1988, huyện An Khê chính thức công nhận nơi này thuộc sự bảo vệ của đơn vị bảo vệ văn vật cấp huyện.[52]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lý Quang Địa http://www.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/zb/rj/rcyl/2013... http://www.fjsq.gov.cn:88/showtext.asp?ToBook=3222... http://www.qzcdi.gov.cn/content/2020-08/22/content... http://www.360doc.com/content/20/0507/21/39749676_... http://book.douban.com/subject/1024528/ http://digitallibrary.usc.edu/cdm/ref/collection/p... http://gb.oversea.cnki.net/KCMS/detail/detail.aspx... http://gb.oversea.cnki.net/KCMS/detail/detail.aspx... http://data.bibliotheken.nl/id/thes/p15072280X //dx.doi.org/10.1007%2F978-90-481-2930-0_18